Trên chặng bay từ Las Vegas về Chicago, tôi ngồi cùng dãy ghế với một gia đình trẻ người Trung Quốc. Cả hai vợ chồng khoảng trong tầm 40 trở lại và hai cô con gái, một chừng dưới mười và một tầm mười hai, miệng nói râm ran không ngớt. Một phần câu chuyện tôi nghe được như sau.
– Mommy, will you come back and live in China? – Đứa bé gái lớn hỏi
– Sure – Bà mẹ trả lời, có phần hơi lạnh nhạt và mắt vẫn dán vào quyển tạp chí của hãng Southwest Airlines.
– But when? Đứa lớn tiếp tục.
– When you all grow up and I get old. I need a house with a garden. But I don’t have them here – Bà mẹ trả lời, cuốn tạp chí đã khép lại, mắt hướng ra phía cửa sổ máy bay.
– So mommy… then I’ll have a job. I’ll earn a lot of money. I’ll buy you a house with a garden. I want you to stay here with us, not back to China.
Con bé cứ huyên thuyên mãi. Những điều nó nói ra có vẻ già hơn so với tuổi của nó. Tất nhiên, nó và em nó sẽ lớn lên trở thành những người gọi là Chinese Americans, tiếp thu nền giáo dục hiện đại của nước Mỹ, rồi ra trường, làm việc, đóng thuế, trả nợ, sống một một lối sống công nghiệp bận rộn. Nếu có việc làm tốt, nếu biết sống tiết kiệm, chi tiêu có chừng mực, nó sẽ thừa tiền để mua cho bố mẹ nó một ngôi nhà vườn trên đất Mỹ. Nhưng bố mẹ nó chắc chắn sẽ không cần một ngôi nhà vườn với đầy đủ tiện nghi trên đất Mỹ. Cái họ cần, có thể chỉ là một ngôi nhà giản dị với một khu vườn nhỏ, bên cạnh những người họ hàng, hay hàng xóm tốt bụng, nói cùng một thứ tiếng: tiếng Trung Hoa. Tôi ngồi nghe và cười thầm. Tôi đoán chắc người mẹ đang thả suy nghĩ của mình ra ngoài những đám mây, đang nghĩ về Trung Hoa, về một thành phố hay làng quê nào đó xa thăm thẳm trong miền kí ức.
***
Càng gần đến ngày tốt nghiệp, cũng như bao sinh viên du học khác, câu hỏi lớn nhất đối với tôi là: ở lại hay về Việt Nam? Ở? Về? Về? Ở? Chỉ là vậy thôi mà đủ để trăn trở ngày này sang tháng nọ. Được gì và mất gì trong sự chọn lựa trên?
Những sinh viên đi du học thường được chia làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất là những người đi tự túc, gia đình chu cấp việc ăn học ở xứ người – hay mọi người vẫn hay gọi dí dỏm là học bổng Utachi. Nhóm thứ hai gồm những người đi học thông qua các kênh tài trợ từ ngân sách quốc gia, hay từ các tổ chức phi chính phủ, như học bổng 322, VEF, IFP, Fulbright, Endeavor, ADS, Chevening… Và nhóm thứ ba, chủ yếu là những người xin học bổng dưới hình thức RA (Research Assistant) hay TA (Teaching Assistant), nói nôm na là làm việc cho trường, cho giáo sư và đổi lại sẽ được miễn học phí, được chu cấp sinh hoạt phí hằng tháng cũng như bảo hiểm. Mức độ ràng buộc sau khi tốt nghiệp vì thế cũng khác nhau tùy thuộc vào từng nhóm. Với nhóm một và ba, sau khi tốt nghiệp sinh viên có thể ở lại nước ngoài nếu tìm được việc và được công ty hay tổ chức nơi họ làm việc hỗ trợ thủ tục visa. Nhưng với nhóm hai, đa phần các du học sinh phải về nước dựa trên cam kết trước khi nhận học bổng, ngoại trừ trường hợp một số tiếp tục học lên tiến sĩ. Theo cam kết, các du học sinh này sau khi tốt nghiệp sẽ quay trở về phục vụ, đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam, và đó cũng chính là mục đích, tiêu chí của những kênh học bổng này khi tuyển chọn người để trao học bổng du học.
Những năm qua, số lượng người Việt Nam đi du học ngày càng nhiều. Rất nhiều người đã tốt nghiệp và đã quay về công tác tại Việt Nam, tạo nên một phần biến chuyển tích cực cho xã hội, nhưng cũng có một số lớn các bạn quyết định ở lại “xứ người” lập nghiệp. Khi được hỏi lí do ở lại, một số cười bảo: ở lại làm vài năm kiếm ít vốn, ít kinh nghiệm, rồi sẽ về. Rồi trước sau cũng sẽ về! Đúng, tôi biết, họ nói đúng, nhưng đằng sau câu trả lời vừa đùa vừa đúng ấy có biết bao điều băn khoăn và hoang mang. Băn khoăn liệu khi về, có được làm việc trong môi trường tốt, lương bổng phúc lợi xã hội có xứng đáng với những năm tháng đi học vất vả, nhất là đối với những sinh viên các ngành khoa học cơ bản và xã hội nhân văn. Và hoang mang vì thời cuộc, vì một đất nước đang lớn mạnh lên từng ngày, thay đổi theo từng ngày, nhưng bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn tồn đọng nhiều khía cạnh tiêu cực mà không chỉ ngày một ngày hai là có thể xóa bỏ ngay.
Ở Seattle có một quán ăn Việt Nam khá là ngon, có thể cho là quán ăn Việt Nam ngon nhất trên đất Mỹ mà tôi được đến thưởng thức cho đến thời điểm hiện tại. Quán Long, nằm ở Second Avenue, gần Pike Market. Dù là quán ăn Việt Nam nhưng lại rất đông khách Tây. Quán có đủ các món Bắc Trung Nam, từ phở, mì quảng, bánh cuốn thịt heo chấm mắm nem, hủ tiếu đến hến xào, mực bao tử nướng, chim cút rô ti, bún vịt nấu măng, sữa đậu nành, nước quất…Tất cả bàn ghế trong quán đều bằng ghỗ mun đen bóng khiến không gian bên trong đậm chất Đông Phương lẫn trong tiếng nhạc hòa tấu Trịnh Công Sơn dìu dặt nhẹ nhàng. Lần đầu đến quán, tôi đi cùng Uyên, một người bạn học ở Đại Học Washington. Uyên là thổ địa, nên chúng tôi tin tưởng Uyên tuyệt đối. Và đúng như vậy. Thức ăn ngon không chê vào đâu được. Và giá cả cũng rất hợp lí. Những ngày tiếp theo, Uyên bận bảo vệ luận văn, tôi và Hường, một cô bạn học cùng ở NYU, tự xoay xở đi chơi một mình, và thế là chúng tôi quyết định đến Long ăn cho thỏa thích, ăn đến khi nào ngán thì thôi. Trước khi ăn không quên chụp hình các món ngon cho lên Facebook cho chúng bạn thèm chơi. Rất nhiều người vào xem, rất nhiều người hỏi: Tại sao ở Mỹ mà lại đi ăn thức ăn Việt Nam? Một câu hỏi lớn? Tại sao?
Có lẽ chỉ những ai đã từng đi xa nhà, xa quê hương mới có thể trả lời cho câu hỏi này.
Ngày đầu tiên đặt chân đến New York, việc đầu tiên là tôi xuống Chinatown cùng với một người bạn Việt Nam đã từng ở đây để mua một bao gạo, một gói thịt xay, một bịch táo, một con dao, một cái mở đồ hộp và một chai nước mắm. Nước mắm đã trở thành một thứ không thể tách rời của cuộc đời tôi, có thể cho là vậy. Bạn bè đùa bảo mày ăn nước mắm sao lấy chồng Tây được, mày phải tập ăn bơ, ăn sữa, ăn những gì không có nặng mùi! Không có gì là khó trong việc ăn bơ sữa và các sản phẩm chế biến từ bơ sữa, mới đầu có thể là khó ăn, nhưng dần rồi sẽ quen và ăn như một phản xạ tự nhiên khi người ta đói bụng. Nhưng nếu được hỏi có thật sự thấy ngon và thích thú không, thì câu trả lời chắc chắn là không. Nếu được chọn giữa một đĩa pasta và một tô mì quảng, tôi sẽ chọn mì quảng không do dự. Nếu để một miếng pizza và một đĩa bánh cuốn trước mặt, đương nhiên là tôi sẽ chọn bánh cuốn. Có thể bạn sẽ cười tôi, cho là tôi bảo thủ và không chịu tiếp thu cái mới cái lạ. Nhưng biết sao được, có thể là do tôi đi du học quá muộn, tôi đi khi cơm và nước mắm và những thứ mùi vị quê hương đã ngấm sâu vào da thịt. New York là nơi dễ sống, tuy nhà cửa đắt đỏ, cuộc sống xô bồ hỗn tạp, nhưng ăn uống lại thỏa mái, cái gì cũng có, từ rau lang, rau dền đến mắm tôm, mắm ruốc, rau muống, cà pháo… những thứ rất chi là quê hương, rất chi là Quảng… Điều khác nhau cơ bản là ở nhà có sẵn mà ăn, còn ở đây phải tự đi mua, về tự nấu tự chế biến, tự khen mình nấu ngon và tự thưởng thức. Những ngày tuyết rơi tơi tả, đi học về tranh thủ chạy xuống Chinatown mua ít rau quả “quê hương” và đồ hải sản, vai mang ba lô nào laptop, nào sách vở tài liệu, áo ấm dày cộm, hai tay khệ nệ hai túi thức ăn, cặm cụi đi ra bến subway, đôi lúc thấy mắt mũi cay xè, tự hỏi mình cuộc sống du học sinh là thế này sao, cái gọi là trải nghiệm cuộc sống là thế này sao, và khi đi học về, cái gì sẽ chờ mình ở phía trước? Nhưng rồi tặc lưỡi, dù sao mình cũng may mắn hơn các bạn đi học ở những bang xa xôi khác, muốn ăn thức ăn Việt Nam, dù là một chai nước mắm, phải lái xe hơn hai tiếng đồng hồ mới đến được chợ Việt hoặc chợ Hoa.
Khi đi xa, người ta mới thật sự nhận biết được mình cần gì, muốn gì, mình đã có những gì và mình có thể đánh mất những gì. Bạn hỏi chúng tôi vì sao ở Mỹ mà lại ăn thức ăn Việt Nam. Câu trả lời: Vì đơn giản chúng tôi là người Việt Nam. Dù đi đâu đi nữa tôi và chúng ta vẫn là người Việt Nam. Sợi dây dù vô hình nhưng trói chặt mỗi người đến mức dù có chối bỏ thì nó vẫn hiện hữu ở một nơi nào đó, và vào một lúc nào đó nó trỗi dậy. Bạn không thể khẳng định là chưa một lần nào trong cuộc đời mình trên xứ người bạn có cảm giác thèm một tô canh chua ăn với cơm nóng và cá kho tộ, hay một đĩa rau luộc chấm nước mắm ớt tỏi cay xè. Bạn không thể không chạnh lòng và không ao ước được ngửi mùi trầm hương ấm cúng trong một đêm giao thừa linh thiêng. Bạn không thể không có lúc nhớ và mong được ngồi bia hơi tán phét, cà phê hay trà đá vỉa hè… Tất cả những gì mà bình thường chúng ta mặc nhiên công nhận hay cho đó là những thứ tầm thường vặt vãnh, thì khi bước chân rong ruổi ở một nơi xa lạ, bạn sẽ bất chợt thèm thuồng, thèm đến day dứt.
Khi chúng ta quyết định ở lại sau khi tốt nghiệp, điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta có một môi trường làm việc tốt hơn, lương bổng và các chế độ phúc lợi xã hội cao hơn, quyền tự do cá nhân và tự do ngôn luận rộng hơn, con cái chúng ta lớn lên sẽ được nhận một nền giáo dục tiên tiến hơn. Nhưng đồng thời, cùng với những cái được ấy, nói theo một người bạn của tôi, là “sự mờ đi của các ký ức, sự dần dửng dưng với quá khứ và quê hương, là mâu thuẫn và cố gắng cân bằng giữa khép và mở, là cố gắng hòa nhập rồi lại mỏi công tìm kiếm cái gọi là identity và nơi bạn thuộc về”. Chúng ta mất đi nhiều giá trị khác trong cuộc sống mà chúng ta chỉ có được khi sống trên quê hương đất nước của mình và nói thứ tiếng nói của dân tộc mình, thứ tiếng đã và đang âm thầm chảy trong từng mạch máu của mỗi người. Đó là lí do tại sao người mẹ trẻ kia chỉ muốn về lại Trung Hoa, muốn có một ngôi nhà nhỏ, một mảnh vườn nhỏ, và được sống cùng những người họ hàng, bạn bè thân thuộc. Cuộc sống giản dị, nhưng ấm áp và trọn vẹn, vì ở nơi đó, người mẹ kia, và tất cả chúng ta có cảm giác “Thuộc Về”, chứ không phải là nơi ở trọ.
Một buổi chiều nào đó, tôi không nhớ rõ, tôi và Huyền bạn tôi ngồi chơi ở công viên Battery Park. Chúng tôi nói với nhau rất nhiều về New York, về những được và mất nếu ở lại. Huyền bảo: “Em không muốn con mình sau này lớn lên cứ nửa nạc nửa mở, Tây không ra Tây và Ta không ra Ta, và không biết mình thuộc về nơi đâu”. Hạnh, Hoài, Nguyên, Tuấn, Linh, Thắng và những người bạn giỏi giang khác của tôi, họ sẽ ở lại, họ sẽ là những người thành đạt, góp thêm niềm tự hào của người Việt Nam trên xứ người. Đó là điều có thể khẳng định. Nhưng tôi cũng khẳng định thêm một điều nữa là, ở một nơi nào đó, vào một khoảnh khắc nào đó, các bạn của tôi, và biết đâu là tôi, sẽ thấy mình lạc lõng giữa vòng xoay bất tận của cuộc sống và ngẩn ngơ tự hỏi mình: Mình thuộc về đâu? Nơi mình đang ở là “good country”, nhưng đó có phải là “my country”?
Duyen Nguyen
Nguồn tccl.info